Các yếu tố nguy cơ gây ung thư vú là gì?
Yếu tố nguy cơ là bất cứ điều gì làm tăng khả năng mắc bệnh của một người. Bệnh ung thư khác nhau có các nguy cơ khác nhau.
Tuy nhiên, việc có một hoặc thậm chí một vài yếu tố nguy cơ gây ung thư không có nghĩa là một người sẽ bị ung thư. Một số phụ nữ có một hoặc nhiều yếu tố nguy cơ ung thư vú không bao giờ phát triển ung thư vú, trong khi khoảng một nửa số phụ nữ mắc bệnh ung thư vú không có yếu tố nguy cơ rõ ràng.
Rủi ro cao hơn đáng kể
- Lịch sử. Một phụ nữ có tiền sử ung thư ở một vú, chẳng hạn như ung thư biểu mô ống dẫn sữa tại chỗ (DCIS) hoặc ung thư vú xâm lấn, có nguy cơ mắc ung thư vú mới cao gấp ba đến bốn lần, không liên quan đến ung thư vú đầu tiên, ở vú còn lại hoặc ở một phần khác của cùng một vú. Điều này khác với sự tái phát của bệnh ung thư vú trước đó.
- Tuổi. Nguy cơ mắc bệnh ung thư vú tăng lên khi bạn già đi. Khoảng 80% phụ nữ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú mỗi năm ở độ tuổi từ 45 trở lên và khoảng 43% ở độ tuổi 65 trở lên. Hãy xem xét điều này: Ở phụ nữ từ 40 đến 50 tuổi, cứ 69 người thì có 1 người có nguy cơ mắc ung thư vú. Từ 50 đến 60 tuổi, nguy cơ đó tăng lên 1 trên 43. Ở nhóm tuổi 60 đến 70, nguy cơ là 1 trên 29. Ở phụ nữ từ 70 tuổi trở lên, cứ 26 người thì có 1 người có nguy cơ mắc bệnh.
Rủi ro cao hơn vừa phải
- Lịch sử gia đình trực tiếp. Có mẹ, chị gái hoặc con gái (“người thân cấp 1”) mắc bệnh ung thư vú sẽ khiến phụ nữ có nguy cơ mắc bệnh cao hơn. Nguy cơ còn lớn hơn nếu người thân này mắc bệnh ung thư vú trước khi mãn kinh và bị ung thư ở cả hai vú. Có một người thân thế hệ thứ nhất mắc bệnh ung thư vú sẽ làm tăng nguy cơ ở phụ nữ lên gần gấp đôi và có hai người thân thế hệ thứ nhất sẽ tăng gấp ba lần nguy cơ của họ.
- Có người thân là nam giới bị ung thư vú cũng sẽ làm tăng nguy cơ mắc bệnh ở phụ nữ.
- Di truyền học. Khoảng 5% đến 10% trường hợp ung thư vú được cho là do di truyền. Những người mang đột biến ở một trong hai gen ung thư vú gia đình được gọi là BRCA1 hoặc BRCA2 có nguy cơ cao hơn. Phụ nữ có sự thay đổi di truyền ở gen BRCA1 có khoảng 72% nguy cơ phát triển ung thư vú ở tuổi 80 và những người có sự thay đổi di truyền ở gen BRCA2 có khoảng 69% nguy cơ phát triển ung thư vú. Có một số loại gen bất thường khác làm tăng nguy cơ ung thư vú.
- Tổn thương vú. Kết quả sinh thiết vú trước đây về tăng sản không điển hình (thùy hoặc ống động mạch) hoặc ung thư biểu mô tiểu thùy tại chỗ làm tăng nguy cơ ung thư vú của phụ nữ lên gấp 4-5 lần.
Rủi ro cao hơn một chút
- Lịch sử gia đình xa xôi. Điều này đề cập đến bệnh ung thư vú ở những người thân thế hệ thứ hai hoặc thứ ba như dì, bà và anh chị em họ.
-
Sinh thiết vú bất thường trước đó. Những phụ nữ có sinh thiết sớm hơn cho thấy bất kỳ dấu hiệu nào sau đây có nguy cơ tăng nhẹ: u xơ tuyến với các đặc điểm phức tạp, tăng sản không điển hình, u xơ cứng và u nhú đơn độc.
-
Có bộ ngực dày đặc. Ngực của bạn có nhiều sợi hơn mô mỡ.
-
Tuổi khi sinh con. Có con đầu lòng sau 35 tuổi hoặc không bao giờ có con khiến bạn có nguy cơ cao hơn.
-
Có kinh sớm. Việc tiếp xúc lâu hơn với estrogen nội sinh (của chính bạn) sẽ làm tăng nguy cơ mắc bệnh, chẳng hạn như bắt đầu có kinh trước 12 tuổi, bắt đầu mãn kinh sau 55 tuổi và chưa bao giờ mang thai.
-
Cân nặng. Thừa cân (đặc biệt là ở vòng eo), với lượng calo và chất béo dư thừa sẽ làm tăng nguy cơ mắc bệnh, đặc biệt là sau khi mãn kinh.
-9%Bán chạyMáy vật lý trị liệu Bộ Quốc phòng
Giá gốc là: 3.600.000₫.3.290.000₫Giá hiện tại là: 3.290.000₫.Công ty Cổ phân TSun Việt Nam
[DoctorHome DH14] Máy trị liệu đa năng DoctorHome DH-14 (tiêu chuẩn)
10.990.000₫-6%Hỗ trợ cơ xương khớp chi dưới
Giá gốc là: 3.700.000₫.3.490.000₫Giá hiện tại là: 3.490.000₫.BH 20 năm -
Bức xạ quá mức. Điều này đặc biệt đúng đối với những phụ nữ tiếp xúc với lượng lớn bức xạ trước 30 tuổi – thường là để điều trị các bệnh ung thư như ung thư hạch.
-
Ung thư khác trong gia đình. Nếu một thành viên trong gia đình bị ung thư buồng trứng dưới 50 tuổi, nguy cơ của bạn sẽ tăng lên.
-
Di sản. Hậu duệ nữ của người Do Thái Đông và Trung Âu (Ashkenazi) có nguy cơ gia tăng.
-
Rượu bia.Sử dụng rượu có liên quan đến việc tăng nguy cơ phát triển ung thư vú. So với những người không uống rượu, những phụ nữ uống một ly rượu mỗi ngày có nguy cơ mắc bệnh rất thấp. Tôinguy cơ tăng lên và những người uống từ 2 đến 5 ly mỗi ngày có nguy cơ cao gấp 1,5 lần so với những phụ nữ không uống rượu.
-
Loài.phụ nữ da trắngcó nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn một chút so với phụ nữ Mỹ gốc Phi, châu Á, gốc Tây Ban Nha và người Mỹ bản địa. Ngoại lệ là phụ nữ Mỹ gốc Phi, những người có nhiều khả năng mắc bệnh ung thư vú dưới 40 tuổi hơn người da trắng.
- Liệu pháp thay thế hormone (HRT). Sử dụng lâu dài estrogen và progesterone kết hợp làm tăng nguy cơ ung thư vú.Nguy cơ này dường như quay trở lại với dân số nói chung sau khi ngừng sử dụng chúng trong 5 năm hoặc lâu hơn.
Nguy cơ thấp
- Ít tiếp xúc suốt đời với estrogen nội sinh. Mang thai trước 18 tuổi, bắt đầu mãn kinh sớm và cắt bỏ buồng trứng trước 37 tuổi sẽ giảm nguy cơ phát triển ung thư vú.
- Thay đổi u xơ vú
- Đa thai
- Uống cà phê hoặc caffeine
- Sử dụng chất chống mồ hôi
- Mặc áo ngực có gọng
- Dùng thuốc nhuộm tóc
- Phá thai hoặc sảy thai
- Sử dụng cấy ghép vú
Các nhà khoa học vẫn đang điều tra xem liệu hút thuốc, chế độ ăn nhiều chất béo, thiếu tập thể dục và ô nhiễm môi trường có làm tăng nguy cơ ung thư vú hay không. Một số nghiên cứu cho thấy những phụ nữ đang sử dụng thuốc tránh thai có nguy cơ mắc ung thư vú tăng rất nhẹ. Nguy cơ đó sẽ biến mất sau khi ngừng sử dụng chúng từ 10 năm trở lên. Vẫn còn những nghiên cứu khác cho thấy không có mối liên hệ nào. Nhiều nghiên cứu đang được tiến hành để xác nhận những phát hiện này.
Phụ nữ cho con bú sẽ giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư vú.
Melinda Ratini, MS, DO – Nguồn WebMD.com
Bài viết được dịch tự động bởi Google Translator
Thông tin về y học chỉ mang tính tham khảo, bạn cần hỏi ý kiến của thầy thuốc trước khi áp dụng cho mình và người thân. Với mỗi người việc đáp ứng với các liệu trình điều trị là khác nhau tùy thuộc cơ địa bản thân !