Năm 2008, nhận thấy những hạn chế của MD (Mean Deviation – Độ lệch trung bình) trong đánh giá tiến triển glôcôm do chịu ảnh hưởng của tình trạng đục thể thủy tinh, Bengtson và Heijl đã giới thiệu chỉ số Visual Field Index (VFI) để phần nào thay thế MD.
Năm 2008, nhận thấy những hạn chế của MD (Mean Deviation – Độ lệch trung bình) trong đánh giá tiến triển glôcôm do chịu ảnh hưởng của tình trạng đục thể thủy tinh, Bengtson và Heijl đã giới thiệu chỉ số Visual Field Index (VFI) để phần nào thay thế MD. VFI được tích hợp vào phần mềm Statpac của thị trường kế Humphrey 30 – 2 và 24 – 2 test SITA (Carl Zeiss Meditec, Dublin, CA). Khác với MD dựa trên đơn vị dB, VFI đánh giá tổn hại thị trường qua số phần trăm độ nhạy cảm ánh sáng mất đi tương đối so với quần thể người khỏe mạnh. [1]
Để tính VFI, nhóm nghiên cứu đã khảo sát các điểm bình thường và điểm bất thường trên thị trường và đánh giá theo thang độ lệch khu trú. Những điểm có ngưỡng nhạy cảm trong giới hạn người khỏe mạnh trên thang độ lệch khu trú sẽ được tính là có nhạy 100%. Những điểm tổn thương hoàn toàn có ngưỡng nhạy cảm < 0 dB được tính là có độ nhạy 0%. Những điểm với độ nhạy giảm có ý nghĩa thống kệ nhưng chưa tổn thương hoàn toàn được xác định là những điểm có p < 0.05 trên thang độ lệch khu trú. Mức độ nhạy cảm với ánh sáng của những điểm này được tính theo công thức. [1]
– Độ lệch toàn bộ là giá trị tuyệt đối của tổng số độ lệch
Tuy nhiên vai trò của các điểm trên thị trường không như nhau. Do vậy mỗi điểm sẽ có một hệ số tùy theo vị trí gần hay xa trung tâm của mình (Hình 1A). Cơ sở lý thuyết của sự hiệu chỉnh này là sự phóng đại không gian của vỏ não thùy chẩm. Sự phóng đại này được giả định có thể phản ánh mật độ tế bào hạch và số lượng tế bào thần kinh trong một khu vực của vỏ não thùy chẩm có thể đáp ứng kích thích từ các điểm trên thị trường. 4 điểm trong cùng, không bao gồm đánh giá ngưỡng hoàng điểm có hệ số 3.29. Hệ số giảm dần từ trung tâm ra ngoại vi từ 1.28, 0.79, 0.57 tới 0.45 ở ngoài cùng. Ảnh hưởng của sự hiệu chỉnh các điểm trong tính VFI được thể hiện rõ nhất ở khu vực cạnh hoàng điểm (Hình 2). [1]
VFI là trung bình của tất cả các mức điểm theo phần trăm. Thị trường bình thường có VFI đạt 100% trong khi thị trường mù là 0%. Do dựa trên thang độ lệch khu trú và sử dụng hệ số hiệu chỉnh cho các điểm gần/xa trung tâm nên VFI ít chịu ảnh hưởng của đục thủy tinh thể và có thể phản ánh trung thực tổn thương của tế bào hạch. Đây là một chỉ số tin cậy, có khả năng phân tích xu hướng biến đổi để phát hiện tiến triển tổn thương nặng lên của thị trường do VFI biểu diễn không chỉ số phần trăm nhạy cảm mất đi mà còn thể hiện tốc độ mất đi theo độ dốc của đường đồ thị đi xuống (dốc tuyến tính VFI) (Hình 3).
Mặc dù vậy, VFI cũng có những hạn chế nhất định. Ở những trường hợp có tổn thương thị trường trầm trọng với MD giảm sâu < -20 dB, giá trị VFI có thể dao động vì mọi tính toán chuyển từ thang độ lệch khu trú sang thang độ lệch toàn bộ. Vậy căn cứ vào đâu để chọn mốc -20 dB của MD? Khi khảo sát 307 bản ghi thị trường của 30 mắt, Bengtsson và cộng sự nhận thấy số điểm có mức độ nhạy cảm giảm có ý nghĩa thống kê trên thang độ lệch khu trú tăng dần cho tới khi MD chạm ngưỡng -20 dB sau đó giảm dần khi tổn thương tiếp tục tiến triển (Hình 4). Do vậy, khi MD < -20 dB, thuật toán tìm VFI phải chuyển từ dựa vào thang độ lệch khu trú sang thang độ lệch toàn bộ. [1]
Theo nghiên cứu của Rao và cộng sự, khi MD chuyển từ > – 20 dB sang < – 20 dB, VFI dao động từ 3 – 33% (trung vị 15%). Sự khác biệt giữa số điểm có ngưỡng nhạy cảm ánh sáng bình thường ở thang độ lệch khu trú (MD > – 20 dB) và thang độ lệch toàn bộ (MD < – 20 dB) có ảnh hưởng đáng kể tới sự dao động của VFI. [3]
Một hạn chế khác của VFI là ở giai đoạn nhẹ, VFI có hiệu ứng trần (ceiling effect) nên nhiều trường dù đã có tổn thương sớm nhưng giá trị VFI vẫn cao. Theo các nghiên cứu của Artes [4] và Marina [5], hiệu ứng trần làm giảm độ nhạy của VFI trong theo dõi tiến triển glôcôm ở giai đoạn sớm. Dưới đây là ví dụ minh họa về hiệu ứng trần (Hình 5). Trên bệnh nhân này tuy VFI bằng 95% nhưng đã có đầy đủ tiêu chuẩn chẩn đoán tổn hại thị trường glôcôm của Anderson và Patella bao gồm: GHT ngoài giới hạn bình thường, PSD < 5%, một chùm 3 điểm cạnh trung tâm (vòng tròn đỏ) trên thang độ lệch khu trú với p < 0.5%. Như vậy nếu chỉ dựa vào VFI thì hoàn toàn có thể bỏ sót tổn thương ở giai đoạn sớm của bệnh nhân. Để khắc phục hiệu ứng trần, Tuohy và cộng sự [2] đã thử tăng hệ số hiệu chỉnh cho các điểm ở chu biên và giảm ở trung tâm (Hình 1C) nhưng kết quả nghiên cứu cho thấy không loại trừ được hoàn toàn hiệu ứng trần bằng cách này. Do vậy khi theo dõi tiến triển glôcôm bằng VFI cần phối hợp với đánh giá tổng thể bản ghi thị trường và sử dụng các chỉ số thị trường khác.
Máy vật lý trị liệu Bộ Quốc phòng
Công ty Cổ phân TSun Việt Nam
[DoctorHome DH14] Máy trị liệu đa năng DoctorHome DH-14 (tiêu chuẩn)
Hỗ trợ cơ xương khớp chi dưới
2. Phân loại giai đoạn tổn thương thị trường dựa vào VFI
2.1. Phân loại The University of Sao Paolo Glaucoma Visual Field Staging System (USP – GVFSS)
Năm 2009, một nhóm tác giả ở đại học Sao Paulo giới thiệu một phân loại thị trường dựa trên VFI là The University of Sao Paolo Glaucoma Visual Field Staging System (USP – GVFSS) [6, 7].
Phân loại này đánh giá tổn thương trên cả 2 khía cạnh định lượng và định tính nên trực quan, toàn diện và có thể mô tả độ rộng, độ sâu tổn thương cũng như sự liên quan của hai nửa thị trường. Trong USP GVFSS, giá trị ngưỡng của VFI được thiết lập ở mỗi giai đoạn. Vị trí tổn thương được xếp vào một trong 3 nhóm: trong vòng 5 độ trung tâm (5), 5 – 10 độ trung tâm (10), ngoài 10 độ trung tâm (10+). Một hoặc hai nửa thị trường đều được đánh giá trong phân loại này. Mối liên hệ với điểm mù được xác định là A nếu ám điểm không nối với điểm mù và B nếu ám điểm có nối với điểm mù (Hình 5). Phân loại này xúc tích, dễ áp dụng, có thể cung cấp thông tin về vị trí tổn thương (ám điểm có/không nối với điểm mù) và nửa thị trường bị ảnh hưởng (cả 2 nửa bị tổn thương có tiên lượng khác với tổn thương mới khu trú ở một nửa thị trường).
2.2. Phân loại mofidied Glaucoma Staging System (mGSS)
Giai đoạn 0 (chưa có tổn thương theo tiêu chuẩn của Anderson và Patella) Giai đoạn 1 (sớm): VFI ≥ 82% Giai đoạn 2 (trung bình): VFI 63 – 81% Giai đoạn 3 (tiến triển): VFI 43 – 62% Giai đoạn 4 (trầm trọng): VFI 23 – 42% Giai đoạn 5 (mù): VFI < 22% |
Năm 2013, trong một nghiên cứu về hệ thống GSS mới (mGSS) cải tiến từ Bascom Palmer GSS (Bảng 1) trên 549 mắt của 549 bệnh nhân người Nhật Bản, Kazumori Hirasawa và cộng sự đã xác định được ngưỡng của VFI trên cơ sở ngưỡng của MD theo Bascom Palmer GSS theo mỗi giai đoạn lần lượt là 81,5%; 62,5%; 42,5%; 22,5% (tương ứng với ngưỡng MD là -6, -12, -20 và -25 dB). MGSS có mức độ tương quan với AGIS và CIGTS (những phân loại được coi là tiêu chuẩn, có tính chính xác cao, chỉ dùng trong nghiên cứu) cao hơn Bascom Palmer GSS và ngang bằng eGSS. Do vậy nhóm nghiên nhận định khả năng phân loại chính xác các giai đoạn của mGSS ngang bằng hoặc thậm chí tốt hơn cả Bascom Palmer GSS và eGSS. So với những phân loại khác phải dựa vào nhiều chỉ số và điểm tổn thương, mGSS đơn giản và tiện dụng trên lâm sàng. [8]
Ngoài ra, tuy VFI có hiệu ứng trần ở giai đoạn sớm nhưng Hirasawa đã xếp những tổn thương liên quan tới hiệu ứng trần vào giai đoạn 1 (VFI cao nhưng đã có tổn thương nhẹ theo tiêu chuẩn của Anderson và Patella). Bên cạnh đó, với những trường nặng hợp có MD < – 20 dB (theo Bascom Palmer GSS), Hirasawa hạn chế sự dao động của VFI bằng cách xếp các tổn thương này vào nhóm trầm trọng và mù. Như vậy mGSS vẫn có khả năng xác định chính xác các giai đoạn tổn thương từ nhẹ đến nặng do đã chuyển cách đánh giá tiến triển thị trường từ định lượng (có nguy cơ dao động) sang định tính (phân thứ hạng giai đoạn, ổn định hơn, chỉ chuyển giai đoạn khi giảm đủ ngưỡng %).
Kết luận: VFI là một chỉ số ít chịu ảnh hưởng của đục thủy tinh thể và phản ánh rất tốt tổn thương thị trường trung tâm. Do vậy, có thể sử dụng VFI để đánh giá tổn thương thị trường trên cả 2 góc độ định lượng (căn cứ theo %) và định tính (phân chia giai đoạn).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bengtsson B., Heijl A. (2008). A visual field index for calculation of glaucoma rate of progression. Am J Ophthalmol. 145, 343-353.
2. Tuohy M., Samuels B.C., Racette L. (2014). An Investigation of the Spatial Weighting Procedure Used in the Visual Field Index. Investigative Ophthalmology & Visual Science. 55, 5630-5630.
3. Rao H.L., Senthil S., Choudhari N.S., Mandal A.K., Garudadri C.S. (2013). Behavior of visual field index in advanced glaucoma. Invest Ophthalmol Vis Sci. 54, 307-312.
4. Artes P.H., O’Leary N., Hutchison D.M., Heckler L., Sharpe G.P., Nicolela M.T., et al. (2011). Properties of the statpac visual field index. Invest Ophthalmol Vis Sci. 52, 4030-4038.
5. Sousa M.C.C., Biteli L.G., Dorairaj S., Maslin J.S., Leite M.T., Prata T.S. (2015). Suitability of the Visual Field Index according to Glaucoma Severity. Journal of Current Glaucoma Practice. 9, 65-68.
6. Vessani R.M., Jr R.S. (2009). University of São Paulo Glaucoma Visual Field Staging System (USP-GVFSS): A New Way to Stage Visual Field in Glaucoma. Investigative Ophthalmology & Visual Science. 50, 5287-5287.
7. Susanna Jr R., Vessani R.M. (2009). Staging Glaucoma Patient: Why and How? The Open Ophthalmology Journal. 3, 59-64.
8. Hirasawa K., Shoji N., Morita T., Shimizu K. (2013). A modified glaucoma staging system based on visual field index. Graefe’s archive for clinical and experimental ophthalmology = Albrecht von Graefes Archiv fur klinische und experimentelle Ophthalmologie. 251, 2747-2752.
BSNT – Bệnh viện Mắt Trung ương
Nguồn Bacsinoitru.vn
</></></></></></></>
Thông tin về y học chỉ mang tính tham khảo, bạn cần hỏi ý kiến của thầy thuốc trước khi áp dụng cho mình và người thân. Với mỗi người việc đáp ứng với các liệu trình điều trị là khác nhau tùy thuộc cơ địa bản thân !