Do vị trí và đặc điểm sinh – cơ học cột sống cổ là bộ phận nối tiếp giữa đầu và thân nên dễ bị tổn thương, nếu một trong hai phần của cơ thể, đầu hoặc thân bị tăng tốc hoặc hãm đột ngột thì cột sống cổ phải chịu sức căng rất lớn. Chừng nào đĩa đệm cột sống cổ chưa bị thoái hoá, khả năng đàn hồi có thể đáp ứng được thì cột sống cổ sẽ vượt qua được những đụng độ, chấn thương mạnh. Nhưng khi đã bị thoái hoá thì cột sống cổ dễ bị tổn thương. Tùy theo hướng và cường độ của lực tác dụng, cột sống cổ phải chịu tổn thương theo nhiều tư thế khác nhau. Cột sống cổ có thể vận động về các phía nên các vận động quá tầm như quá ưỡn, quá cúi hay quay cổ về một bên quá mức thường xảy ra trong lao động nghề nghiệp hay trong đời sống sinh hoạt, thể thao, tai nạn giao thông.
Thường gặp các nguyên nhân chấn thương sau:
Chấn thương do quá cúi, cột sống cổ buộc phải quá cúi, gây quá giãn ở phía sau và ép cột sống ở phía trước, nên có thể gãy đốt sống, rách vòng sợi phía sau, giãn dây chằng dọc sau và dây chằng liên – gai. Nếu tác động mạnh, các cơ ở vùng gáy có thể bị rách, đứt, tạo bọc máu tụ. Động mạch đốt sống cũng có thể bị tổn thương do chèn ép. Chỉ trong trường hợp chấn thương gây di lệch đốt sống mới có khả năng chèn ép động mạch đốt sống từ phía bên, với các biểu hiện lâm sàng của hội chứng cổ – đầu.
– Chấn thương do quá ưỡn cột sống cổ, khi cột sống cổ đang ở tư thế đứng thẳng mà có chấn thương, chấn động mạnh từ phía trước, sẽ gây trạng thái quá ưỡn cột sống cổ, làm quá căng phần mềm và đĩa đệm phía trước.
Thường gặp bệnh cảnh lâm sàng của một bọc máu tụ sau hầu, với triệu chứng chính là nuốt đau. Nếu quá ưỡn cột sống cổ dễ gãy các mỏm khớp đốt sống, sai khớp đốt sống tại chỗ, có hội chứng cổ cục bộ hoặc tổn thương dây chẩm lớn. Bệnh nhân thấy đau ở vùng chẩm, cứng gáy, hạn chế vận động cột sống cổ.
– Chấn thương do văng quật, văng quật là một chuyển động quay nhanh, có lực ly tâm mạnh, vì vậy ở cột sống cổ và đầu có gia tốc lớn về phía đối diện, gây sai khớp, gãy xương, đau vùng gáy, sau đâu, hạn chế tầm vận động cột sống cổ. Tuỳ theo các cấu trúc bị tổn thương, có thể biểu hiện bằng hội chứng cổ – cánh tay, hội chứng cổ – đầu hoặc hội chứng tuỷ cổ do chèn ép tuỷ sống. Trong trường hợp hội chứng cổ – vai – cánh tay sau chấn thương, bệnh nhân thấy đau cánh tay là do rễ thần kinh bị kích thích bởi mỏm móc đốt sống thoái hoá. Hội chứng cổ – đầu sau chấn thương thường biểu hiện đau gáy, sau đầu dữ dội và đau thần kinh chẩm. Đau có thể lan toả nhưng thường khu trú một bên dai dẳng hàng tháng. Động mạch đốt sống cũng có thể chèn ép gây trở ngại lưu thông máu, vì vậy có các triệu chứng của thiểu năng tuần hoàn não sau. Chụp cột sống cổ thường quy, MRI cột sống cổ cho chẩn đoán xác định.
Originally posted 2011-12-03 15:19:28.
Thông tin về y học chỉ mang tính tham khảo, bạn cần hỏi ý kiến của thầy thuốc trước khi áp dụng cho mình và người thân. Với mỗi người việc đáp ứng với các liệu trình điều trị là khác nhau tùy thuộc cơ địa bản thân !